I- Sự hình thành Vỏ
Trái Đất, Cân bằng 5 loại Vật chất.
Cuộc
sống của Trái Đất và cuộc sống của các loài Sinh vật trên mặt đất đều phải tuân
theo một Quy Luật nhất định. Quy Luật đó dựa trên nguyên tắc tương tác sinh khắc
của các thuộc tính Vật Chất mang điện tích Âm(-), Dương(+) để tạo ra các biến
đổi khác nhau. Sự sinh khắc của các thuộc tính Vật Chất đó có thể làm cho Trái
Đất phát triển hay diệt vong. Quy luật đó đã bao đời nay được cha ông ta đúc
kết lưu truyền trong ca dao:
“Bao giờ cho đến tháng ba,
Hoa Gạo rụng xuống thì tra hạt Vừng”.
Tháng 3 mùa Xuân, thời tiết ấm áp phù
hợp cho cho gieo trồng hạt vừng. Nhiệt độ thích hợp cho hạt vừng đâm chồi nẩy
lộc, ra hoa kết trái. Đến tháng 5 mùa Hè nắng nóng là thời kỳ thu hoạch hạt
Vừng, kết thúc một thời kỳ sinh trưởng của một loài sinh vật. Sinh vật sinh ra
từ Trái Đất và kết thúc cuộc sống lại trở về Trái Đất. Quy luật tuần hoàn đó diễn
ra muôn đời. Chúng ta có thể lý giải Quy luật đó như sau:
1- Giai đoạn hình
thành Thổ (Nền móng của sự sống).
Từ xa xưa có một vụ nổ trong Vũ Trụ. Vụ nổ đó đã hình
thành ra Hệ Mặt trời trong đó có hành tinh Trái Đất của chúng ta. Thủa ban đầu
Trái Đất chỉ là một quả cầu lữa nóng bỏng hàng triệu độ. Trôi theo thới gian
chất lỏng nóng bỏng đó nguội dần và tạo thành lớp Vỏ Cứng bao bọc bên ngoài.
Lớp Vỏ Cứng đó chúng ta gọi là Vỏ Trái Đất. Vỏ Trái Đất bao gồm có các Nguyên
tố Hóa học bảo hòa điện tích Âm(-), Dương(+). Chúng đông kết lại thành các lớp
Đất đá và các nguyên tố Kim loại khác. Lớp Vỏ cứng này trong Khoa học Cổ Đại
Trung Hoa gọi là Thổ. Tiếng Trung Hoa gọi Đất là Thổ. Đây là giai đoạn thứ nhất
hình thành Vỏ Trái Đất. Vỏ Trái đất là nền móng của sự sống hình thành trên bè
mặt của nó. Ở bên trong lớp Vỏ Trái đất vẫn giữ nguyên khối nham thạch Kim loại
nóng bỏng hàng triệu độ gọi là MACMA. Dòng MACMA này luôn luôn chuyển động quay
xung qunh trục Tung của Trái đất. Khi trục Trái Đất quay đổi hướng, dòng Nham Thạch
này sẽ đập mạnh lên phía trong bề mặt Trái Đất. Lực va đập đó làm cho phía bên trên
bè mặt Trái Đất bị rung lên tạo thành các cơn địa chấn gây nên thảm họa Động
Đất. Thảm họa Động Đất là nổi kinh hoàng của loài người hàng trăm triệu năm qua
mà loài người vẫn chưa dự báo được.
2- Giai đoạn hình
thành Thủy (Nuôi dưỡng sự sống).
Trong quá trình hình thành Vỏ Trái Đất, dưới sức nóng của
quả cầu lữa và nhiệt năng của Mặt Trời, các chất khí Hyđro và Ôxy kết hợp với
nhau tạo thành hơi nước H2O. Hơi nước được hình thành bốc lên cao tạo thành các
đám mây bao quanh bề mặt của Vỏ Trái Đất. Chúng gặp tầng không khí lạnh ngưng
tụ lại tạo thành các đám mây mưa. Các đám mây mưa này rơi xuống mặt đất. Nước
mưa đọng lại trong các vùng thấp tạo thành ao hồ sông suối hay biển cả như
chúng ta thấy ngày nay. Giái đoạn hình thành Nước này gọi là Thủy. Tiếng Trung
Hoa Thủy là Nước. Đây là giai đoạn thứ hai hình thành Nước trên bề mặt Trái Đất.
Giai đoạn này rất quan trong. Có Nước là có Sự sống xuất hiện. Nước nuôi sống
TẾ BÀO để hình thành các sinh vật sống trên Trái Đất. Nước là Tài nguyên quý
giá nhất của mọi sinh vật, đặc biệt đối với loài Người. Khác với các Hành tinh
khác không có nước không có sự sống trên bề mặt của nó. Vì Hydro kết hợp với Oxy
tạo thành nước, vì vậy ta nói Kim sinh Thủy là như vậy. Không nên hiểu máy móc
cho rằng khi nung chảy kim loại thì tạo thành nước.
3- Giai đoạn Kim (Kim
loại- công cụ của sự sống).
Trong quá trình Trái Đất hình thành lớp Vỏ Cứng, chất
lỏng nóng bỏng trong lòng Trái Đất tiếp tục phun trào giải phóng các khoáng
chất kim loại ra bên ngoài lớp Vỏ. Các khoáng chất kim loại này nguội dần và
tích tụ trong Vỏ Cứng của Trái Đất tạo thành các mỏ kim loại nằm trong lớp vỏ
trái đất. Các chất Kim loại này có đầy đủ trong bảng tuần hoàn Medelep như Sát,
Kẽm, Đồng, Vàng, Canxi, Phót pho v.v. Giai đoạn hình thành các chất Kim loại
gọi là Kim. Nói theo khoa học hiện đại gọi chung là Chất Vô Cơ (Kim loại và Á
kim). Đây là giai đoạn thứ ba hình thành
Kim trong lớp Vỏ Trái Đất. Giai đoạn này là cơ sở làm nền
móng đề cung cấp các chất tạo nên Nhân TẾ BÀO hình
thành sự sống trên Trái Đất ví dụ như Cacbon, Nito tạo nên tế bào não, da, Canxi
tạo tế bào xương.v.v.
4- Giai đoạn Mộc
(Hình thành TẾ BÀO- Sự sống xuất hiện).
Khi
nứớc mưa rơi xuống bề mặt Trái Đất, chúng cuốn theo Kim loại và Á kim chảy vào
trong hồ ao, sông suối, biển cả. Dưới sức nóng của năng lượng Mặt Trời, Nước và
Kim Loại kết hợp với nhau hình thành ra TẾ BÀO. TẾ BÀO được nuôi sống trong
NƯỚC. Đầu tiên là Đơn Bào. Sau đó các ĐƠN BÀO kết nối với nhau thành ĐA BÀO.
Các ĐA BÀO phát triển tiến hóa dần dần trở thành các loài sinh vật như VI Sinh
vật, Giun, Cây Cối, Cá, Chim muông, Động Vật có Vú và cuối cùng là Loài Người.
Sự liên kết các ĐƠN BÀO thành các chuổi ĐA BÀO gọi là giai đoạn hình thành chất
Hữu Cơ. Có chất Hữu Cơ là có sinh vật sống. Khoa học Cổ dại Trung Hoa lấy cái Cây
gần gủi với cuộc sống của con người làm biểu tượng cho giai đoạn này. Họ đặt tên
là Mộc. Tiếng Trung hoa gọi Cây là MỘC. Đây là giai đoạn Trái Đất có Sự Sống
của nó. Loài Người được tiến hóa sau cùng ở giai đoạn này. TẾ BÀO được nuôi
dưỡng trong Nước. Nước chiếm 80% trọng lượng của TẾ BÀO. Vì vậy giai đoạn Thủy
và Mộc gán kết với nhau hết sức chặt chẽ. Có Nước là có sự sống trên hành tinh
của chúng ta.
Giai đoạn hình thành Tế Bào là giai đoạn thứ 4 của Trái
Đất. Sự sống đã xuất hiện trên Trái Đất. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của
Trái Đát so với các hành tinh khác trong hệ mặt trời. Trái Đất có sự sống xuất
hiện. Chúng ta không nên hiểu nhầm Mộc là cái Cây. Mộc là biểu tượng cả một
giai đoạn hình thành sự sống. Sự sống xuất hiện và tiến hóa không ngừng trên bề
mặt Trái Đất của chúng ta. Có hai loại cấu trúc TẾ BÀO hình thành sự sống như
sau:
1-Tế
bào có cấu trúc Cac bon hình thành lớp Thực vật.
2-Tế bào có cấu trúc Nito hình thành lớp Động vật như Vi
khuẩn, Giun, Sán,
Cấu trúc TẾ BÀO hình thành hai loại sinh vật trên Trái Đất
như sau:
-Sinh
vật hạ đẳng. Giai đoạn đầu hình
thành lớp sinh vật có đIện tích Âm(-) và Dương(+) không phân biệt, ta gọi là
sinh vật Hạ đẳng. Sinh vật Hạ đẳng tự sinh bằng cách cơ thể tự tách đôi thành
hai hay nhiều cá thể. Phương pháp sinh sản này làm cho chúng phát triển quá
nhanh gây mất cân bằng sinh thái trên trái đất. Ví dụ như cây cỏ tự phân nhánh,
hay chiết cành. Con giun bị đứt làm đôi sẽ trở thành 2 con v.v. Bởi vậy Giun
sán và Vi khuẩn khi xâm nhập vào tế bào cơ thể người, chúng tự tách ra nẩy nở
rất nhanh phá vỡ tế bàò gây nên dịch bệnh. Bản chất sinh vật hạ đẳng tự tách đôi
vì vậy chúng phát triển rất nhanh làm mất cân bằng sinh thái trên bề mặt Trái
Đất. Dương quá thịnh, Âm quá suy.
-Sinh
vật cao cấp. Để hạn chế sự sinh sản
mất cân bằng của lớp thực vật Hạ đẳng. Lớp sinh vật Cao cấp ra đời có cấu tạo
Não bộ. Đầu tiên là loài Cá và loài Lưỡng cư, Chim, Động vật có vú và loài
người xuất hiện. Lớp sinh vật Cao cao cấp điện tích Âm(-) và Dương(+) phân
biệt. Ví dụ như cá, có cá đực (+) cá cái (-), trâu có trâu đực (+) trâu
cái (-). Người có nam (+), nữ Âm(-). Lớp sinh vật cao cáp có hai mục đích chính
như sau.
1-Hạn chế sinh sản. Muốn sinh sản được thì bắt buộc hai
điện tích Âm và Dương kết hợp vớI nhau mới sinh ra thế hệ thứ hại. Nếu không
kết hợp được sẽ không có thế hệ thứ hai. Đây chinh là biện pháp tự nhiên hạn
chế sInh đẻ.
2- Hạn chế sự phát triển của sinh vật Hạ đẳng.
3-Đảm bảo cân bằng trong nội khối. Ví dụ Con cá ăn con
giun. Con Trâu, con Voi ăn cây cỏ. Con Hổ ăn con Trâu, con người ăn cả thịt và
cỏ. Các loài tự tiêu diệt lẫn nhau để đảm bảo Âm(-) và Dương(+) cân bằng qua đường
Phân định Âm- Dương.
Khi thời điểm Dương(+) quá thịnh, Âm(-) quá suy nghĩa là
vạn vật sinh sống trên bề mặt Trái đất đã lấy đi một lượng Vật chất trên Vỏ Trái
đất để nuôi sống mình làm mất cân bắng Am(-), Dương(+). Vì vậy phía bên Dương(+)
vạn vật sẽ bị tiêu diệt để trả lại cho Vỏ Trái đất phía bên Âm(-) suy một khối
lương vật chất đúng bằng khối lượng mất đi do vạn vật lấy đi để nuôi sốn chúng đúng
với Định luật bảo toàn và biến hóa năng lượng.
Đây chính là quy luật
cân bằng sinh thái khi xuất hiện sự sống trên hành tinh chúng ta. Khi
có sự sống xuất hIện trên mặt đất bản thân tự nhiên đã sinh ra quy luật cân
bằng. Quy luật tự nhiên sống
động chính là ở vấn đề này. Nếu một loài sinh ra không bị loài nào tiêu diệt
thì sẽ bị môi trường thiên nhiên tiêu diệt chúng. Ví dụ như loài Khủng long ngự
trị Trái Đất cách đây hàng triệu năm. Chúng tàn phá thiên nhiên qúa mạnh làm
mất cân bằng sự sống trên bề mặt Trái Đất, Thời tiết trở nên băng giá, băng hà
xuất hiên bao phủ mặt đất để tiêu diệt chúng. Loài người nếu phát triển quá
nhanh làm mất cân bằng củng sẽ bị thiên nhiên tiêu diệt.
5- Giai
đoạn Hỏa (giai đoạn tiêu hủy sinh vật).
Các loài sinh vật sống trên bề mặt
Trái Đất hập thụ nguồn năng lượng Mặt Trời để sưởi ấm cho cơ thể. Nhờ có NHIỆT
NĂNG để sưởi ấm cơ thể mà SINH á VẬT mới tồn tại phát triển, tiến hóa không
ngừng. Không có nguồn năng lượng Mặt Trời sinh vật sống trên trái đất sẽ bị
tiêu diệt. Ở giai đọan Mộc chúng ta thấy khi một lớp sinh vật sinh ra sẽ lấy đi
một lượng vật chất để nuôi sống chúng. Lượng vật chất mà Vỏ Trái Đất mất đi đó sẽ
làm cho lớp Vỏ Trái Đất mất cân bằng. Nếu sinh vật cứ sinh ra mãi thì lớp vỏ
Trái Đất sẽ mòn dần và Trái Đất mất cân bằng nghiêm trọng và TRÁI ĐẤT sẽ bị phá
hủy. Để cho lớp sinh vật kế tiếp sinh ra có dủ lượng vật chất nuôi sống chúng
thì lớp sinh vật sinh ra trước đó phải bị tiêu hủy để trả lại khối lượng vật
chất đó cho VỎ TRÁI ĐẤT, theo đúng định luật biến hóa và bảo toàn năng lượng.
Lớp sinh vật đang sống còn gọi là lớp chất HỮU CƠ. Sinh vật chết đi, Chất Hữu
Cơ được tiêu hủy, đốt cháy để trả lại Nước, Kim loại cho VỎ TRÁI ĐẤT. Trái đất trở về khối lượng Cân bằng ban đầu
của nó là Thổ, Kim, Thủy. Riêng phần
NHIỆT NĂNG được trả lại cho cho VỦ TRỤ mà người đời cho đó là LINH HỒN siêu
thoát lên THIÊN ĐÀNG. Đây là giai đoạn thứ 5 kết thúc sự sống trên hành tinh chúng
ta. Giai đoạn tiêu hủy chất HỮU CƠ để giải phóng Nhiệt năng, các nguyên tố Kim
Loại và Nước (Xem H- 1):
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét