5/11/18

Quy Luật Bất Biến Của Tự Nhiên


I- Sự hình thành Vỏ Trái Đất, Cân bằng 5 loại Vật chất.
            Cuộc sống của Trái Đất và cuộc sống của các loài Sinh vật trên mặt đất đều phải tuân theo một Quy Luật nhất định. Quy Luật đó dựa trên nguyên tắc tương tác sinh khắc của các thuộc tính Vật Chất mang điện tích Âm(-), Dương(+) để tạo ra các biến đổi khác nhau. Sự sinh khắc của các thuộc tính Vật Chất đó có thể làm cho Trái Đất phát triển hay diệt vong. Quy luật đó đã bao đời nay được cha ông ta đúc kết lưu truyền trong ca dao:
            “Bao giờ cho đến tháng ba,
            Hoa Gạo rụng xuống thì tra hạt Vừng”.
            Tháng 3 mùa Xuân, thời tiết ấm áp phù hợp cho cho gieo trồng hạt vừng. Nhiệt độ thích hợp cho hạt vừng đâm chồi nẩy lộc, ra hoa kết trái. Đến tháng 5 mùa Hè nắng nóng là thời kỳ thu hoạch hạt Vừng, kết thúc một thời kỳ sinh trưởng của một loài sinh vật. Sinh vật sinh ra từ Trái Đất và kết thúc cuộc sống lại trở về Trái Đất. Quy luật tuần hoàn đó diễn ra muôn đời. Chúng ta có thể lý giải Quy luật đó như sau:
1- Giai đoạn hình thành Thổ (Nền móng của sự sống).
Từ xa xưa có một vụ nổ trong Vũ Trụ. Vụ nổ đó đã hình thành ra Hệ Mặt trời trong đó có hành tinh Trái Đất của chúng ta. Thủa ban đầu Trái Đất chỉ là một quả cầu lữa nóng bỏng hàng triệu độ. Trôi theo thới gian chất lỏng nóng bỏng đó nguội dần và tạo thành lớp Vỏ Cứng bao bọc bên ngoài. Lớp Vỏ Cứng đó chúng ta gọi là Vỏ Trái Đất. Vỏ Trái Đất bao gồm có các Nguyên tố Hóa học bảo hòa điện tích Âm(-), Dương(+). Chúng đông kết lại thành các lớp Đất đá và các nguyên tố Kim loại khác. Lớp Vỏ cứng này trong Khoa học Cổ Đại Trung Hoa gọi là Thổ. Tiếng Trung Hoa gọi Đất là Thổ. Đây là giai đoạn thứ nhất hình thành Vỏ Trái Đất. Vỏ Trái đất là nền móng của sự sống hình thành trên bè mặt của nó. Ở bên trong lớp Vỏ Trái đất vẫn giữ nguyên khối nham thạch Kim loại nóng bỏng hàng triệu độ gọi là MACMA. Dòng MACMA này luôn luôn chuyển động quay xung qunh trục Tung của Trái đất. Khi trục Trái Đất quay đổi hướng, dòng Nham Thạch này sẽ đập mạnh lên phía trong bề mặt Trái Đất. Lực va đập đó làm cho phía bên trên bè mặt Trái Đất bị rung lên tạo thành các cơn địa chấn gây nên thảm họa Động Đất. Thảm họa Động Đất là nổi kinh hoàng của loài người hàng trăm triệu năm qua mà loài người vẫn chưa dự báo được.
2- Giai đoạn hình thành Thủy (Nuôi dưỡng sự sống).
Trong quá trình hình thành Vỏ Trái Đất, dưới sức nóng của quả cầu lữa và nhiệt năng của Mặt Trời, các chất khí Hyđro và Ôxy kết hợp với nhau tạo thành hơi nước H2O. Hơi nước được hình thành bốc lên cao tạo thành các đám mây bao quanh bề mặt của Vỏ Trái Đất. Chúng gặp tầng không khí lạnh ngưng tụ lại tạo thành các đám mây mưa. Các đám mây mưa này rơi xuống mặt đất. Nước mưa đọng lại trong các vùng thấp tạo thành ao hồ sông suối hay biển cả như chúng ta thấy ngày nay. Giái đoạn hình thành Nước này gọi là Thủy. Tiếng Trung Hoa Thủy là Nước. Đây là giai đoạn thứ hai hình thành Nước trên bề mặt Trái Đất. Giai đoạn này rất quan trong. Có Nước là có Sự sống xuất hiện. Nước nuôi sống TẾ BÀO để hình thành các sinh vật sống trên Trái Đất. Nước là Tài nguyên quý giá nhất của mọi sinh vật, đặc biệt đối với loài Người. Khác với các Hành tinh khác không có nước không có sự sống trên bề mặt của nó. Vì Hydro kết hợp với Oxy tạo thành nước, vì vậy ta nói Kim sinh Thủy là như vậy. Không nên hiểu máy móc cho rằng khi nung chảy kim loại thì tạo thành nước.
3- Giai đoạn Kim (Kim loại- công cụ của sự sống).
Trong quá trình Trái Đất hình thành lớp Vỏ Cứng, chất lỏng nóng bỏng trong lòng Trái Đất tiếp tục phun trào giải phóng các khoáng chất kim loại ra bên ngoài lớp Vỏ. Các khoáng chất kim loại này nguội dần và tích tụ trong Vỏ Cứng của Trái Đất tạo thành các mỏ kim loại nằm trong lớp vỏ trái đất. Các chất Kim loại này có đầy đủ trong bảng tuần hoàn Medelep như Sát, Kẽm, Đồng, Vàng, Canxi, Phót pho v.v. Giai đoạn hình thành các chất Kim loại gọi là Kim. Nói theo khoa học hiện đại gọi chung là Chất Vô Cơ (Kim loại và Á kim). Đây là  giai đoạn thứ ba hình thành Kim trong lớp Vỏ Trái Đất. Giai đoạn này là cơ sở làm nền móng đề cung cấp các chất tạo nên Nhân TẾ BÀO hình thành sự sống trên Trái Đất ví dụ như Cacbon, Nito tạo nên tế bào não, da, Canxi tạo tế bào xương.v.v.
4- Giai đoạn Mộc (Hình thành TẾ BÀO- Sự sống xuất hiện).
            Khi nứớc mưa rơi xuống bề mặt Trái Đất, chúng cuốn theo Kim loại và Á kim chảy vào trong hồ ao, sông suối, biển cả. Dưới sức nóng của năng lượng Mặt Trời, Nước và Kim Loại kết hợp với nhau hình thành ra TẾ BÀO. TẾ BÀO được nuôi sống trong NƯỚC. Đầu tiên là Đơn Bào. Sau đó các ĐƠN BÀO kết nối với nhau thành ĐA BÀO. Các ĐA BÀO phát triển tiến hóa dần dần trở thành các loài sinh vật như VI Sinh vật, Giun, Cây Cối, Cá, Chim muông, Động Vật có Vú và cuối cùng là Loài Người. Sự liên kết các ĐƠN BÀO thành các chuổi ĐA BÀO gọi là giai đoạn hình thành chất Hữu Cơ. Có chất Hữu Cơ là có sinh vật sống. Khoa học Cổ dại Trung Hoa lấy cái Cây gần gủi với cuộc sống của con người làm biểu tượng cho giai đoạn này. Họ đặt tên là Mộc. Tiếng Trung hoa gọi Cây là MỘC. Đây là giai đoạn Trái Đất có Sự Sống của nó. Loài Người được tiến hóa sau cùng ở giai đoạn này. TẾ BÀO được nuôi dưỡng trong Nước. Nước chiếm 80% trọng lượng của TẾ BÀO. Vì vậy giai đoạn Thủy và Mộc gán kết với nhau hết sức chặt chẽ. Có Nước là có sự sống trên hành tinh của chúng ta.
Giai đoạn hình thành Tế Bào là giai đoạn thứ 4 của Trái Đất. Sự sống đã xuất hiện trên Trái Đất. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của Trái Đát so với các hành tinh khác trong hệ mặt trời. Trái Đất có sự sống xuất hiện. Chúng ta không nên hiểu nhầm Mộc là cái Cây. Mộc là biểu tượng cả một giai đoạn hình thành sự sống. Sự sống xuất hiện và tiến hóa không ngừng trên bề mặt Trái Đất của chúng ta. Có hai loại cấu trúc TẾ BÀO hình thành sự sống như sau:
1-Tế bào có cấu trúc Cac bon hình thành lớp Thực vật.
2-Tế bào có cấu trúc Nito hình thành lớp Động vật như Vi khuẩn, Giun, Sán,
Cấu trúc TẾ BÀO hình thành hai loại sinh vật trên Trái Đất như sau:
-Sinh vật hạ đẳng. Giai đoạn đầu hình thành lớp sinh vật có đIện tích Âm(-) và Dương(+) không phân biệt, ta gọi là sinh vật Hạ đẳng. Sinh vật Hạ đẳng tự sinh bằng cách cơ thể tự tách đôi thành hai hay nhiều cá thể. Phương pháp sinh sản này làm cho chúng phát triển quá nhanh gây mất cân bằng sinh thái trên trái đất. Ví dụ như cây cỏ tự phân nhánh, hay chiết cành. Con giun bị đứt làm đôi sẽ trở thành 2 con v.v. Bởi vậy Giun sán và Vi khuẩn khi xâm nhập vào tế bào cơ thể người, chúng tự tách ra nẩy nở rất nhanh phá vỡ tế bàò gây nên dịch bệnh. Bản chất sinh vật hạ đẳng tự tách đôi vì vậy chúng phát triển rất nhanh làm mất cân bằng sinh thái trên bề mặt Trái Đất. Dương quá thịnh, Âm quá suy.
-Sinh vật cao cấp. Để hạn chế sự sinh sản mất cân bằng của lớp thực vật Hạ đẳng. Lớp sinh vật Cao cấp ra đời có cấu tạo Não bộ. Đầu tiên là loài Cá và loài Lưỡng cư, Chim, Động vật có vú và loài người xuất hiện. Lớp sinh vật Cao cao cấp điện tích Âm(-) và Dương(+) phân biệt. Ví dụ như cá, có cá đực (+) cá cái (-), trâu có trâu đực (+) trâu cái (-). Người có nam (+), nữ Âm(-). Lớp sinh vật cao cáp có hai mục đích chính như sau.
1-Hạn chế sinh sản. Muốn sinh sản được thì bắt buộc hai điện tích Âm và Dương kết hợp vớI nhau mới sinh ra thế hệ thứ hại. Nếu không kết hợp được sẽ không có thế hệ thứ hai. Đây chinh là biện pháp tự nhiên hạn chế sInh đẻ.
2- Hạn chế sự phát triển của sinh vật Hạ đẳng.
3-Đảm bảo cân bằng trong nội khối. Ví dụ Con cá ăn con giun. Con Trâu, con Voi ăn cây cỏ. Con Hổ ăn con Trâu, con người ăn cả thịt và cỏ. Các loài tự tiêu diệt lẫn nhau để đảm bảo Âm(-) và Dương(+) cân bằng qua đường Phân định Âm- Dương.
Khi thời điểm Dương(+) quá thịnh, Âm(-) quá suy nghĩa là vạn vật sinh sống trên bề mặt Trái đất đã lấy đi một lượng Vật chất trên Vỏ Trái đất để nuôi sống mình làm mất cân bắng Am(-), Dương(+). Vì vậy phía bên Dương(+) vạn vật sẽ bị tiêu diệt để trả lại cho Vỏ Trái đất phía bên Âm(-) suy một khối lương vật chất đúng bằng khối lượng mất đi do vạn vật lấy đi để nuôi sốn chúng đúng với Định luật bảo toàn và biến hóa năng lượng.
Đây chính là quy luật cân bằng sinh thái khi xuất hiện sự sống trên hành tinh chúng ta. Khi có sự sống xuất hIện trên mặt đất bản thân tự nhiên đã sinh ra quy luật cân bằng. Quy luật tự nhiên sống động chính là ở vấn đề này. Nếu một loài sinh ra không bị loài nào tiêu diệt thì sẽ bị môi trường thiên nhiên tiêu diệt chúng. Ví dụ như loài Khủng long ngự trị Trái Đất cách đây hàng triệu năm. Chúng tàn phá thiên nhiên qúa mạnh làm mất cân bằng sự sống trên bề mặt Trái Đất, Thời tiết trở nên băng giá, băng hà xuất hiên bao phủ mặt đất để tiêu diệt chúng. Loài người nếu phát triển quá nhanh làm mất cân bằng củng sẽ bị thiên nhiên tiêu diệt.
5- Giai đoạn Hỏa (giai đoạn tiêu hủy sinh vật).
Các loài sinh vật sống trên bề mặt Trái Đất hập thụ nguồn năng lượng Mặt Trời để sưởi ấm cho cơ thể. Nhờ có NHIỆT NĂNG để sưởi ấm cơ thể mà SINH á VẬT mới tồn tại phát triển, tiến hóa không ngừng. Không có nguồn năng lượng Mặt Trời sinh vật sống trên trái đất sẽ bị tiêu diệt. Ở giai đọan Mộc chúng ta thấy khi một lớp sinh vật sinh ra sẽ lấy đi một lượng vật chất để nuôi sống chúng. Lượng vật chất mà Vỏ Trái Đất mất đi đó sẽ làm cho lớp Vỏ Trái Đất mất cân bằng. Nếu sinh vật cứ sinh ra mãi thì lớp vỏ Trái Đất sẽ mòn dần và Trái Đất mất cân bằng nghiêm trọng và TRÁI ĐẤT sẽ bị phá hủy. Để cho lớp sinh vật kế tiếp sinh ra có dủ lượng vật chất nuôi sống chúng thì lớp sinh vật sinh ra trước đó phải bị tiêu hủy để trả lại khối lượng vật chất đó cho VỎ TRÁI ĐẤT, theo đúng định luật biến hóa và bảo toàn năng lượng. Lớp sinh vật đang sống còn gọi là lớp chất HỮU CƠ. Sinh vật chết đi, Chất Hữu Cơ được tiêu hủy, đốt cháy để trả lại Nước, Kim loại cho VỎ TRÁI ĐẤT. Trái đất trở về khối lượng Cân bằng ban đầu của nó là Thổ, Kim, Thủy. Riêng phần NHIỆT NĂNG được trả lại cho cho VỦ TRỤ mà người đời cho đó là LINH HỒN siêu thoát lên THIÊN ĐÀNG. Đây là giai đoạn thứ 5 kết thúc sự sống trên hành tinh chúng ta. Giai đoạn tiêu hủy chất HỮU CƠ để giải phóng Nhiệt năng, các nguyên tố Kim Loại và Nước (Xem H- 1):


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét